Hỏi đáp luật Hôn nhân và gia đình 2997 Lượt xem

Từ chối nhận con và ly hôn

Câu hỏi: Vợ chồng tôi kết hôn vào ngày 20/07/2013. Đến ngày 15/2/2014, vợ tôi sinh con, theo xác nhận của bệnh viện thì vợ tôi sinh đủ tháng (36 tuần). Trong khi đó trước khi kêt hôn vợ chồng tôi không quan hệ vợ chồng với nhau.

Vì thế tôi mang cuống rốn của cháu bé đi xét nghiệm AND thì phát hiện ra cháu bé không phải con của tôi. Xin hỏi luật sư: tôi phải làm thế nào để từ chối nhận con và ly hôn?
(Đình Văn Hiếu, Từ Liêm, Hà Nội).

Xem thêm các tư vấn luật sau:
>> Đơn phương ly hôn khi mang thai
>> Căn cứ ly hôn đơn phương
>> Xét xử ly hôn vắng mặt

 Từ chối nhận con và ly hôn


Công ty luật Thái An tư vấn cho bạn như sau:
Thứ nhất, về việc từ chối nhận con.
Điều 63 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 quy định:
“Điều 63. Xác định cha, mẹ
1. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ chồng.
Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận cũng là con chung của vợ chồng.
2. Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định.
Việc xác định cha, mẹ cho con được sinh ra theo phương pháp khoa học do Chính phủ quy định.”
Mục 5 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân gia đình năm 2000:
“Khi có người yêu cầu Tòa án xác định người nào đó là con của họ hay không phải là con của họ thì phải có chứng cứ; về nguyên tắc người có yêu cầu phải cung cấp chứng cứ. Trong trường hợp cần thiết thì phải giám định gien. Người có yêu cầu giám định gien phải nộp lệ phí giám định gien”
Như vậy, trường hợp anh không thừa nhận cháu bé là con của mình thì anh phải làm đơn gửi đến Tòa án nhân dân cấp huyện nơi anh đang thường trú. Kèm theo đơn anh phải cung cấp các chứng cứ cho Tòa án để Tòa án xem xét việc từ chối nhận con của anh là có cơ sở.
Thứ hai, về việc yêu cầu xin ly hôn.
Anh phải tuân theo quy định tại Điều 85 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000: “Trong trường hợp vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn”
Quy định tại mục 6 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân gia đình năm 2000:
“6. Quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn (Điều 85)
Theo quy định tại Điều 85 thì vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn. Tuy nhiên, người chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn khi vợ đang có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Luật chỉ quy định "vợ đang có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi"; do đó, khi người vợ đang thuộc một trong các trường hợp này (không phân biệt người vợ có thai với ai hoặc bố của đứa trẻ dưới 12 tháng tuổi là ai), mà người chồng có yêu cầu xin ly hôn, thì giải quyết như sau:
a. Trong trường hợp chưa thụ lý vụ án thì Toà án áp dụng điểm 1 Điều 36 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự trả lại đơn kiện cho người nộp đơn.
b. Trong trường hợp đã thụ lý vụ án thì Toà án cần giải thích cho người nộp đơn biết là họ chưa có quyền yêu cầu xin ly hôn. Nếu người nộp đơn rút đơn yêu cầu xin ly hôn thì Toà án áp dụng điểm 2 Điều 46 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án. Nếu người nộp đơn không rút đơn yêu cầu xin ly hôn thì Toà án tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung và quyết định bác yêu cầu xin ly hôn của họ”
Như vậy, nếu anh có đơn xin ly hôn vào thời điểm vợ anh đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì Tòa án có thể bác yêu cầu xin ly hôn của anh hoặc trả lại đơn trong trường hợp chưa thụ lý vụ án ly hôn.

Liên hệ ngay để được giải đáp pháp luật nhanh nhất!

CÔNG TY LUẬT THÁI AN
Đối tác pháp lý tin cậy

 

TƯ VẤN

Nếu bạn cần được tư vấn hãy gọi 1900633725

Nếu bạn yêu cầu dịch vụ, hãy gọi
1900633725

Hoặc viết thư tới
contact@luatthaian.vn

Khách hàng

  Gọi 1900633725
Chat ZALO