Hỏi: Tôi và anh ấy kết hôn ngày 01/01/2008. Nhưng trước đó vào ngày 01/8/2007 chúng tôi đã mua căn hộ chung cư tại CT18 khu đô thị TH, thành phố H. Trong đó anh ấy góp 1/3 số tiền cùng tôi để mua căn hộ này (chuyển tiền qua tài khoản ngân hàng), nhưng chỉ mình anh ấy đứng tên trong hợp đồng mua bán và giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất.
Anh ta muốn tặng căn hộ trên cho em trai mình nhưng tôi không đồng ý. Ngày 01/01/2009, anh ta đến văn phòng công chứng C yêu cầu công chứng hợp đồng tặng cho tài sản giữa anh ta và em trai. Trong tình huống này tôi phải làm như thế nào để lấy lại được tài sản của mình và liệu rằng công chứng viên có công chứng hợp đồng tặng cho căn hộ này giữa chồng tôi và em trai anh ta khi không có tôi ký tên không?
(Lê Thị Ngọc Huyền, Sa Pa, Lào Cai).
Xem thêm các tư vấn luật sau:
>> Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
>> Chia tài sản riêng khi ly hôn
>> Tư vấn luật Hôn nhân gia đình

Công ty luật Thái An giải đáp về trường hợp của bạn như sau:
Trong tình huống này, mặc dù chỉ có chồng chị đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất nhưng vẫn phải xác định xem tài sản này thực sự thuộc sở hữu của ai, chị thực sự có quyền sở hữu đối với căn hộ này không?
Căn cứ theo Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 được sửa đổi bổ sung năm 2010: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừ kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung; Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận”.
Từ quy định này đối chiếu với tình huống, có thể thấy căn hộ này là tài sản có được trước khi anh chị kết hôn, đồng thời cả hai người sau khi kết hôn đều không thỏa thuận căn hộ này sẽ là tài sản chung của vợ chồng. Do đó, căn hộ này không phải là tài sản chung của vợ chồng chị.
Theo như lời chị trình bày, chị đã góp 1/3 số tiền cùng chồng để mua căn hộ bằng cách chuyển tiền qua tài khoản ngân hàng. Khi đó, chị và chồng chị sẽ là những người sở hữu chung theo phần đối với căn hộ này theo quy định tại Điều 216 BLDS năm 2005. Tuy nhiên, thực tế chỉ mình chồng chị đứng tên trong hợp đồng mua bán và giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất. Do đó, để thực hiện được quyền sở hữu của mình thì chị cần phải chứng minh được minh có đóng góp tiền để mua căn hộ. Cụ thể, chị có thể chứng minh thông qua các giấy tờ khi chuyển tiền ở ngân hàng vào tài khoản của chồng chị tại thời điểm mua căn hộ, sự hiện diện của chị trong quá trình đàm phán, thỏa thuận mua căn hộ này,…Nếu chị chứng minh được chị có đóng góp tiền để mua căn hộ: Chị là chủ sở hữu chung theo phần đối với căn hộ.
Khi đó, theo khoản 2 Điều 216 BLDS năm 2005 thì chị có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình. Do đó, mặc dù chị không đồng ý nhưng chồng chị vẫn lập hợp đồng tặng cho căn hộ cho em trai của mình là không hợp pháp, trái với quy định của pháp luật (do chồng chị không có quyền định đoạt toàn bộ đối với căn hộ). Vì vậy, theo khoản 4 Điều 35 Luật công chứng năm 2006 thì trong trường hợp này công chứng viên có quyền từ chối công chứng hợp đồng này vì có điều khoản vi phạm pháp luật. Nếu chị không chứng minh được chị có đóng góp tiền để mua căn hộ thì người chủ sở hữu duy nhất của căn hộ là chồng chị. Khi đó, công chứng viên có thể công chứng hợp đồng cho chồng chị.
Thực tế, công chứng viên khi gặp trường hợp của chị không thể dựa trên những giấy tờ chị đưa ra để phán đoán chị có phải là chủ sở hữu chung theo phần đối với căn hộ hay không mà phải qua một quá trình chứng minh khối tài sản trên có phải là đồng sở hữu hay không; và điều này cũng dẫn đến nhiều rủi ro có thể xảy ra. Do đó, trong tình huống này, vợ chồng chị nên ngồi lại thỏa thuận, bàn bạc với nhau hoặc khởi kiện ra Tòa để giải quyết. Khi có thỏa thuận của vợ chồng chị hoặc có bản án, quyết định của Tòa án, công chứng viên của phòng công chứng có thể dựa vào đó để quyết định có công chứng hợp đồng cho chồng và em trai chồng chị hay không.
Chúc bạn sớm giải quyết được vướng mắc của mình.
Liên hệ ngay để được giải đáp pháp luật nhanh nhất!
CÔNG TY LUẬT THÁI AN
Đối tác pháp lý tin cậy
(Lê Thị Ngọc Huyền, Sa Pa, Lào Cai).
Xem thêm các tư vấn luật sau:
>> Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
>> Chia tài sản riêng khi ly hôn
>> Tư vấn luật Hôn nhân gia đình

Công ty luật Thái An giải đáp về trường hợp của bạn như sau:
Trong tình huống này, mặc dù chỉ có chồng chị đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất nhưng vẫn phải xác định xem tài sản này thực sự thuộc sở hữu của ai, chị thực sự có quyền sở hữu đối với căn hộ này không?
Căn cứ theo Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 được sửa đổi bổ sung năm 2010: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừ kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung; Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận”.
Từ quy định này đối chiếu với tình huống, có thể thấy căn hộ này là tài sản có được trước khi anh chị kết hôn, đồng thời cả hai người sau khi kết hôn đều không thỏa thuận căn hộ này sẽ là tài sản chung của vợ chồng. Do đó, căn hộ này không phải là tài sản chung của vợ chồng chị.
Theo như lời chị trình bày, chị đã góp 1/3 số tiền cùng chồng để mua căn hộ bằng cách chuyển tiền qua tài khoản ngân hàng. Khi đó, chị và chồng chị sẽ là những người sở hữu chung theo phần đối với căn hộ này theo quy định tại Điều 216 BLDS năm 2005. Tuy nhiên, thực tế chỉ mình chồng chị đứng tên trong hợp đồng mua bán và giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất. Do đó, để thực hiện được quyền sở hữu của mình thì chị cần phải chứng minh được minh có đóng góp tiền để mua căn hộ. Cụ thể, chị có thể chứng minh thông qua các giấy tờ khi chuyển tiền ở ngân hàng vào tài khoản của chồng chị tại thời điểm mua căn hộ, sự hiện diện của chị trong quá trình đàm phán, thỏa thuận mua căn hộ này,…Nếu chị chứng minh được chị có đóng góp tiền để mua căn hộ: Chị là chủ sở hữu chung theo phần đối với căn hộ.
Khi đó, theo khoản 2 Điều 216 BLDS năm 2005 thì chị có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình. Do đó, mặc dù chị không đồng ý nhưng chồng chị vẫn lập hợp đồng tặng cho căn hộ cho em trai của mình là không hợp pháp, trái với quy định của pháp luật (do chồng chị không có quyền định đoạt toàn bộ đối với căn hộ). Vì vậy, theo khoản 4 Điều 35 Luật công chứng năm 2006 thì trong trường hợp này công chứng viên có quyền từ chối công chứng hợp đồng này vì có điều khoản vi phạm pháp luật. Nếu chị không chứng minh được chị có đóng góp tiền để mua căn hộ thì người chủ sở hữu duy nhất của căn hộ là chồng chị. Khi đó, công chứng viên có thể công chứng hợp đồng cho chồng chị.
Thực tế, công chứng viên khi gặp trường hợp của chị không thể dựa trên những giấy tờ chị đưa ra để phán đoán chị có phải là chủ sở hữu chung theo phần đối với căn hộ hay không mà phải qua một quá trình chứng minh khối tài sản trên có phải là đồng sở hữu hay không; và điều này cũng dẫn đến nhiều rủi ro có thể xảy ra. Do đó, trong tình huống này, vợ chồng chị nên ngồi lại thỏa thuận, bàn bạc với nhau hoặc khởi kiện ra Tòa để giải quyết. Khi có thỏa thuận của vợ chồng chị hoặc có bản án, quyết định của Tòa án, công chứng viên của phòng công chứng có thể dựa vào đó để quyết định có công chứng hợp đồng cho chồng và em trai chồng chị hay không.
Chúc bạn sớm giải quyết được vướng mắc của mình.
Liên hệ ngay để được giải đáp pháp luật nhanh nhất!
CÔNG TY LUẬT THÁI AN
Đối tác pháp lý tin cậy